BÁO SONG NGỮ SỐ 161: NUÔI THÚ CƯNG VÀ NHỮNG LỢI ÍCH VỀ SỨC KHỎE

Image 22/01/2021 09:36

Image Báo song ngữ

Benefits about owning a pet

Nuôi thú cưng và những lợi ích về sức khỏe

Anxiety and mood

Giảm lo âu và cải thiện tâm trạng

Pet owners certainly believe their pets provide emotional support, especially during times of stress, Mueller said, and thankfully science appears to back that up.

Bà Mueller, đồng Giám đốc Viện Nghiên cứu Tương tác giữa người – động vật của Đại học Tufts, cho biết, những người nuôi thú cưng thực sự tin rằng “những người bạn nhỏ” đã giúp họ cải thiện tâm trạng, đặc biệt là trong các thời điểm khó khăn. Đáng mừng thay, khoa học cũng ủng hộ điều này.

"There's some research that shows having a pet with you during an anxious event could help reduce the stress of that event," she said.

"Studies have shown repeatedly that people's good mood increases and bad mood decreases around pets," Herzog said. "And so we know that there's immediate short term benefits, physiological and psychological, with interacting with pets. I have no doubt about that."

Bà chia sẻ: “Một số khảo sát cho thấy thú cưng có thể giúp bạn xoa dịu căng thẳng khi gặp phải những sự việc không hay’’. Còn ông Herzog, nhà tâm lý học và giáo sư tại Đại học Western Carolina thì cho biết: “Các nghiên cứu đã nhiều lần chỉ ra rằng con người cảm thấy phấn chấn hơn và dần vơi đi những cảm xúc tiêu cực khi chơi với vật nuôi. Nhờ đó mà chúng ta biết được rằng thú cưng có thể đem lại những lợi ích tức thì về mặt tâm sinh lý, và tôi hoàn toàn tin tưởng vào điều này.”

But the same can't yet be said about depression.

Tuy nhiên, chưa ai có thể khẳng định lợi ích tương tự của thú cưng đối với bệnh trầm cảm.

Herzog pulled 30 studies on the topic: Eighteen showed no difference in depression rates between people with pets and those without; five concluded having a pet eased depressive symptoms; five found pets made depression worse; and the rest were inconclusive.

Sau khi đã thực hiện 30 nghiên cứu về đề tài này, ông Herzog tổng kết: Trong số các nghiên cứu trên, có mười tám nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc trầm cảm giữa những người có và không có vật nuôi; năm nghiên cứu kết luận nuôi thú cưng có thể giảm thiểu các triệu chứng trầm cảm; năm nghiên cứu khác lại cho thấy thú cưng chỉ làm căn bệnh trở nên nghiêm trọng hơn; và các nghiên cứu còn lại thì chưa thể đi đến kết luận rõ ràng.

One study of the elderly that Mueller conducted found pet owners were about twice as likely to have had depression in the past -- but reported no depression in the last week. Did they get a pet and then get depressed or did the pet help end the depression? It's not clear.

Trong một nghiên cứu về người cao tuổi của mình, bà Mueller nhận thấy rằng người nuôi thú cưng có tiền sử mắc bệnh trầm cảm cao gấp hai lần so với những người khác; tuy nhiên, họ không có bất cứ biểu hiện bệnh nào trong tuần trước đó. Liệu rằng họ đã nuôi thú cưng và sau đó bị trầm cảm hay chính thú cưng đã giúp họ khỏi bệnh? Chúng ta chưa thể khẳng định chắc chắn được.

Therapy and emotional support

Thú cưng là liều thuốc bổ cho tinh thần

One of the reasons science is so iffy on the subject of pets and our health is that it's nearly impossible to conduct the "gold standard" of studies: a randomized controlled trial where the researcher controls all factors and then randomly assigns a pet to the test group.

"It's really difficult to do randomized studies because mostly people want to choose whether or not they get a pet and choose who their pets are," Mueller said.

Một trong những lý do khiến các nhà khoa học gặp khó khăn trong quá trình nghiên cứu về vật nuôi và sức khỏe, đó là gần như không thể đạt được quy chuẩn nghiên cứu lí tưởng: một thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên, trong đó nghiên cứu viên kiểm soát mọi yếu tố và ngẫu nhiên chỉ định một thú cưng để nhóm thực nghiệm nuôi. Bà Mueller giải thích: "Điều này rất khó để thực hiện bởi hầu hết mọi người đều muốn chủ động trong việc quyết định nuôi và lựa chọn thú cưng".

Backed by a 9-million-dollar partnership between the US National Institute of Health's Child Development and Behavior Branch and the UK's Waltham Petcare Science Institute, some researchers have begun designing better studies to determine if it's the animals who have the impact.

Nhờ vào khoản hỗ trợ 9 triệu đô la Mỹ từ Viện Quốc gia Hoa Kỳ về Phát triển sức khỏe và Nghiên cứu Hành vi Trẻ em và Viện Khoa học Vật nuôi Waltham của Anh Quốc, các nghiên cứu chất lượng hơn bắt đầu được thiết kế với mục đích xác định xem liệu động vật có thực sự đem lại ảnh hưởng đối với con người hay không.

A 2015 study found children with ADHD who read to real animals showed more improvements in sharing, cooperation, volunteering and behavioral problems than ADHD children who read to a stuffed animal. Another study found autistic children were calmer and interacted more when in the presence of guinea pigs than toys.

Vào năm 2015, một nghiên cứu được thực hiện trên trẻ em bị rối loạn tăng động (ADHD) cho thấy, những đứa trẻ đọc sách cho động vật có khả năng chia sẻ, hợp tác, tham gia tình nguyện và cải thiện hành vi tốt hơn so với những bé có thính giả chỉ là những con thú nhồi bông. Một nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng trẻ tự kỷ trở nên bình tĩnh và tương tác tích cực hơn khi được cho ngồi cùng với chuột lang thay vì đồ chơi.

A four-month-long randomized study (PDF) done at Vanderbilt University in Nashville provided children access to therapy dogs just before undergoing cancer treatment. All of the kids enjoyed it, but there wasn't a drop in anxiety levels between the children in the test group and those in the control group.

Tại Đại học Vanderbilt, Nashville, các nhà khoa học tiến hành một nghiên cứu ngẫu nhiên kéo dài 4 tháng, trong đó họ cho những đứa trẻ sắp trải qua buổi điều trị ung thư chơi với các chú chó trị liệu. Tuy rằng tất cả các bé đều tỏ ra rất thích thú, các nhà khảo sát không ghi nhận được bất kỳ sự cải thiện nào về mức độ lo lắng ở trẻ trong nhóm thử nghiệm khi so sánh với nhóm đối chứng.

The parents of the children who had therapy dogs, however, showed a significant drop in parenting anxiety over their child's pain and ability to cope.

Research in this area is booming.

Mặc dù vậy, cha mẹ của những đứa trẻ trong nhóm thử nghiệm lại có sự cải thiện đáng kể về mức độ lo lắng và khả năng đối mặt với tình trạng bệnh của con họ.

Hiện nay, rất nhiều nghiên cứu đang được thực hiện trong lĩnh vực này.

Dogs and cardiovascular health

Mối liên hệ giữa việc nuôi chó và cải thiện sức khỏe tim mạch

An analysis last year of nearly 4 million people in the United States, Canada, Scandinavia, New Zealand, Australia and the United Kingdom found dog ownership was associated with a 24% reduction in dying from any cause. If the person had already suffered a heart attack or stroke, having a dog was even more beneficial; they were 31% less likely to die from cardiovascular disease.

Một phân tích được thực hiện trên gần 4 triệu người tại Hoa Kỳ, Canada, Scandinavia, New Zealand, Úc và Vương quốc Anh vào năm ngoái cho thấy nuôi chó có thể giúp giảm 24% tỷ lệ tử vong ở người do bất kỳ nguyên nhân nào. Với một người từng có tiền sử bị đau tim hoặc đột quỵ, việc sở hữu một chú chó thậm chí còn có lợi hơn, giúp họ giảm 31% nguy cơ tử vong vì bệnh tim mạch.

The study has been criticized for not controlling for other diseases, social economic status and other factors that might confound the results.

Still, another large study published around the same time found people who owned dogs had better health outcomes after suffering a major cardiovascular event such as heart attack or stroke. The benefit was highest for dog owners who lived alone. Heart attack survivors living alone who owned dogs had a 33% lower risk of death compared to survivors who did not own a dog. Stroke survivors living alone with a dog had a 27% reduced risk of death.

Of course these cardio benefits are just for dogs -- not cats, horses, gerbils and the like. Many suggest its the potential exposure to exercise that explains the benefit.

Tuy nhiên, nghiên cứu này đã bị chỉ trích do không kiểm soát các yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả khảo sát như bệnh nền, địa vị kinh tế và xã hội, v.v.

Mặc dù vậy, một nghiên cứu lớn khác được công bố cùng thời điểm đã cho thấy những người nuôi chó phục hồi sức khỏe tốt hơn sau khi trải qua những biến chứng nguy hiểm liên quan đến tim mạch như nhồi máu cơ tim hay đột quỵ. Lợi ích này thể hiện rõ nhất ở nhóm đối tượng sống một mình. Cụ thể, những người sống một mình và có tiền sử bị đau tim mà nuôi chó thì có nguy cơ tử vong thấp hơn 33% so với những người bệnh không nuôi. Mặt khác, những người nuôi chó sống một mình mà có tiền sử bị đột quỵ thì có nguy cơ tử vong thấp hơn đến 27%.

Tất nhiên, những lợi ích về tim mạch này mới chỉ được chứng minh với việc nuôi cún cưng và chưa thể kiểm chứng với các vật nuôi khác như mèo, ngựa, chuột, v.v. Giải thích cho điều này, nhiều người nói rằng rất có thể những chú chó là động lực khiến cho người chủ nuôi tập thể dục nhiều hơn, từ đó giúp họ cải thiện sức khỏe.

 

Thong ke